LỊCH SỬ CỦA OMEGA
Năm 1848, một người thanh niên 23 tuổi tên Louis Brandt đã thành lập một xưởng sản xuất linh kiện đồng hồ trong biệt thự của gia đình ở Chaux-De-Fond, Thụy Sĩ. Đây là địa điểm sau này sẽ trở thành nơi sản sinh ra Omega
Khi Louis qua đời năm 1879, hai con trai của ông là Louis-Paul và Cesar tiếp quản công việc kinh doanh
Năm 1880, hai anh em chuyển nơi làm việc đến Route De Boujean nhưng sau đó nhanh chóng chuyển đến Rue Jakob- Stämpfli, nơi họ có toàn quyền kiểm soát toàn bộ quy trình sản xuất.
Hai anh em ra mắt bộ máy Calibre đầu tiên vào năm 1885 được gọi là Labrador
Nhanh chóng đến năm 1894, hai anh em đã tạo ra bộ máy Omega 19-line bằng cách sử dụng các kỹ thuật đột phá
1901 là năm chiếc đồng hồ Onega đầu tiên được giới thiệu, được chế tạo đặc biệt để gắn vào bình xăng ô tô và xe máy
Năm 1905 và 1909 Omega là chiếc máy bấm giờ chính thức tại một số sự kiện thể thao ở Thụy Sĩ và trên thế giới. Năm 1909 cũng chứng kiến những chiếc đồng hồ Omega được bán trên khắp thế giới tại sáu lục địa
Bước sang năm 1929, Omega đã trình làng một chiếc đồng hồ khá đặc biệt, được đeo trên mu bàn tay nối với ngón tay chứ không phải trên cổ tay. Vỏ bạch kim được đính kim cương, hồng ngọc, thạch anh và vàng tráng men đen, tất cả được gắn kết bằng dây khiến nó trở thành một chiếc đồng hồ thực sự độc đáo
Omega ra mắt đồng hồ Armure vào năm 1929. Vỏ vuông cổ điển được trang bị một lớp vỏ cứng thứ hai ở giữa bảo vệ bộ máy giúp nó có khả năng siêu chống va đập
Năm 1931 bộ máy automatic nguyên mẫu đầu tiên sử dụng hai quả nặng để chuyển động theo cả hai hướng, biến nó trở thành một bước đột phá về công nghệ. Omega cũng lập kỷ lục về độ chính xác trên tất cả sáu lần thử nghiệm tại Đài thiên văn Geneva
Omega lần đầu tiên đóng vai trò là máy bấm giờ chính thức tại Thế vận hội Olympic 1932 ở Los Angeles. Omega vẫn là máy bấm giờ chính thức cho Thế vận hội cho đến ngày nay
Năm 1932 ra mắt chiếc đồng hồ dành cho thợ lặn đầu tiên trên thế giới được gọi là Marine
Năm 1936, Calibre size 47,7mm đã lập kỷ lục thế giới về độ chính xác tuyệt đối. nổi tiếng ở tất cả hạng mục tại Đài thiên văn Kew-Teddington ở London
Năm 1937, công chúa Juliana của Hà Lan đã đặt mua một chiếc đồng hồ trang sức Omega cho đám cưới của mình, trong đó dây tóc đồng hồ có tắc dụng như lò xo giúp bánh răng cân bằng khi quay mỏng hơn sợi tóc người năm lần
Từ năm 1940, Omega trở thành hãng sản xuất đồng hồ lớn nhất cho quân đội Anh
Sau đó vào năm 1947, Omega tạo ra một trong những bộ chuyển động Tourbillon đầu tiên có lồng quay để bù đắp ảnh hưởng của trọng lực lên hiệu suất hiện hành của chúng
Kỉ niệm 100 năm thành lập vào năm 1948, họ giới thiệu Omega Seamaster
Năm 1957 ra mắt đồng hồ chronograph Speedmaster mang tính biểu tượng, đồng hồ thợ lặn Seamaster 300 và Railmaster.
Elvis Presley ông hoàng nhạc Rock n ‘Roll đã được phong cấp trung sĩ vào năm 1960, tay ông đeo trong ảnh là Seamaster có lịch
Năm 1962, chiếc Speedmaster đầu tiên do phi hành gia Wally Schirra đeo đã được đưa vào không gian trong sự kiện Mercury Sigma 7
Ngày 20 tháng 7 năm 1969, đó là ngày Neil Armstrong đeo chiếc Speedmaster bước đi trên mặt trăng
Năm 1974, Omega ra mắt Marine Chronometer, cho đến nay nó vẫn là chiếc đồng hồ đeo tay chính xác nhất trên thế giới
Nhanh chóng đến năm 1984, 9000 chiếc đồng hồ để bàn thiết kế phức tạp nhất trên thế giới được tạo ra. Với kích thước chỉ 18cm x 9cm Mỗi chiếc đồng hồ được chạm khắc, tạo hình đánh bóng bằng tay. Đây là sự hợp tác với Dominique Loiseau dựa trên con người, thời gian và vĩnh cửu
Năm 1994, Omega tạo ra chiếc đồng hồ Tourbillon Center tự lên dây cót đầu tiên
Năm 1995, siêu mẫu Cindy Crawford trở thành đại sứ thương hiệu của Omega. Không chỉ tham gia các chiến dịch quảng cáo mà còn tham gia các sự kiện và thiết kế sản xuất
Năm 1995 chứng kiến sự ra mắt của James Bond Goldeneye với Pierce Brosnan đeo Omega Seamaster. Bond đã đeo một chiếc Omega kể từ đó
Omega ra mắt bộ máy đồng hồ cơ học thực tế đầu tiên vào năm 1999. Đây là một bước ngoặt đối với thương hiệu khi Nicolas G Hayek bảo đảm quyền phát triển công nghệ từ nhà phát minh và nhà chế tác đồng hồ bậc thầy George Daniels
Năm 2013 Aqua Terra ra đời. Những chiếc đồng hồ trước đây được mô tả là chịu đựng áp lực từ trường khoảng 1.000 gauss trong khi Seamaster Aqua Terra có khả năng chịu lực trên 15.000 gauss.
Năm 2014 ra mắt máy calibre Master Co-Axial. Những chuyển động cơ học này mang lại hiệu quả cơ học, độ chính xác và hiệu suất đo thời gian. Chúng cũng có công nghệ chống từ trường như Seamaster Aqua Terra
Nhấp vào đây để xem nhiều loại đồng hồ Omega của chúng tôi